Skip to content
banner
Ngôn ngữ

ANTIQUA ET NOVA (SỰ KHÔN NGOAN VỪA CỔ XƯA VỪA MỚI MẺ), số 21- 70

BTT UBCLHB 05
2025-02-03 21:17 UTC+7 31
Ngày 28/1, Toà Thánh đã công bố Văn kiện ANTIQUA ET NOVA (SỰ KHÔN NGOAN VỪA CỔ XƯA VỪA MỚI MẺ). Đây là văn kiện chung của hai Bộ Giáo lý Đức tin và Văn hóa – Giáo dục về mối quan hệ giữa Trí tuệ Nhân tạo và Trí khôn Con người. Ban biên tập xin gửi đến quý độc giả Lưu Ý này của Tòa Thánh. (Kỳ 2)

Tương quan với Chân lý

21. Trí thông minh của con người căn bản là “món quà của Chúa ban tặng để đón nhận chân lý”[1]. Theo nghĩa kép của trí tuệ - lý trí, nó cho phép con người khám phá những thực tại vượt qua kinh nghiệm giác quan hoặc lợi ích đơn thuần, vì “ước mong chân lý là một phần của bản chất con người. Một đặc tính bẩm sinh của lý trí con người là hỏi tại sao mọi thứ lại diễn ra như vậy”[2]. Vượt ra ngoài giới hạn của dữ liệu thực nghiệm, trí thông minh của con người có thể “thực sự đạt đến thực tại của nó một cách có thể biết được”[3]. Trong khi thực tại vẫn chỉ được biết một phần, thì mong muốn chân lý “luôn thúc đẩy lý trí tiến xa hơn; như thể lý trí đã bị choáng ngợp khi thấy rằng nó luôn có thể tiến xa hơn những gì nó đã đạt được”[4]. Mặc dù Chân lý tự nó vượt qua ranh giới của trí thông minh con người, nhưng nó vẫn thu hút trí thông minh một cách không thể cưỡng lại[5]. Bị thu hút bởi sức hấp dẫn này, con người được dẫn dắt để tìm kiếm “những chân lý ở cấp độ cao hơn”[6].

22. Nghị lực bẩm sinh này hướng tới việc theo đuổi chân lý đặc biệt rõ ràng trong khả năng hiểu biết ngữ nghĩa và sáng tạo của con người[7], qua đó cuộc tìm kiếm này diễn ra theo “cách phù hợp với bản chất xã hội và phẩm giá của con người”[8]. Tương tự như vậy, một định hướng kiên vững hướng tới chân lý là điều cần thiết để lòng bác ái vừa mang tính chân thực vừa phổ quát[9].

23. Cuộc tìm kiếm chân lý đạt đến biểu hiện cao nhất của nó trong sự cởi mở với những thực tại vượt trên thế giới vật chất và tạo thành. Trong Thiên Chúa, mọi chân lý đều đạt được cùng đích và căn nguyên của chúng[10]. Việc phó thác bản thân cho Thiên Chúa là một “quyết định căn bản liên quan đến toàn thể con người”[11]. Theo cách này, con người trở thành người một cách trọn vẹn như điều mà họ được mời gọi trở thành: “trí khôn và ý chí thể hiện bản tính thiêng liêng của chúng”, giúp con người “hành động theo cách nhận ra sự tự do cá nhân một cách trọn vẹn”[12].

Quản trị thế giới

24. Đức tin Kitô giáo hiểu rằng tạo dựng là hành động tự do của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng, theo như Thánh Bônaventura thành Bagnoregio giải thích, tạo dựng “không phải để gia tăng vinh quang của Người, nhưng để thể hiện và thông truyền vinh quang đó”[13]. Vì Thiên Chúa tạo dựng theo sự Khôn ngoan của Người (x. Kn 9,9; Gr 10,12), nên tạo dựng thấm nhuần một trật tự nội tại phản ánh kế hoạch của Thiên Chúa (x. St 1; Đn 2,21-22; Is 45,18; Tv 74,12-17; 104)[14] trong đó Thiên Chúa đã kêu gọi con người đảm nhận một vai trò: vun trồng và chăm sóc thế giới[15].

25. Được tạo dựng nên bởi đôi bàn tay của Đấng Tạo hóa, con người sống căn tính của mình như những hữu thể được tạo ra bởi hình ảnh của Thiên Chúa bằng cách “bảo vệ” và “canh tác” (x St 2,15) thụ tạo - sử dụng trí thông minh và kỹ năng của mình để chăm sóc và phát triển muôn loài thụ tạo theo kế hoạch của Chúa[16]. Trong đó, trí thông minh của con người phản ánh Trí Thông Minh của Đấng đã tạo ra muôn vật (x St 1-2; Ga 1)[17], liên tục duy trì chúng và hướng dẫn chúng đến mục đích cuối cùng của chúng trong Người[18]. Hơn nữa, con người được kêu gọi phát triển khả năng của mình nơi khoa học và công nghệ, vì qua đó, Thiên Chúa được tôn vinh (x. Hc 38,6). Do đó, trong mối tương quan đúng đắn với muôn loài thụ tạo, con người, một mặt, sử dụng trí thông minh và kỹ năng của mình để hợp tác với Thiên Chúa trong việc hướng dẫn thụ tạo hướng tới mục đích mà Ngài đã định cho chúng[19]. Mặt khác, như Thánh Bônaventura quan sát, chính sự sáng tạo giúp tâm trí con người “dần dần vươn tới Nguyên lý tối cao, tức là Thiên Chúa”[20].

Hiểu biết toàn diện về trí thông minh của con người

26. Trong bối cảnh này, trí thông minh của con người được hiểu rõ hơn như một khả năng đóng vai trò thiết yếu trong cách toàn thể con người tương tác với thực tại. Sự tương tác đích thực đòi hỏi phải nắm bắt toàn bộ giá trị của bản thể: tinh thần, nhận thức, nhục thể và tương quan.

27. Sự tương tác này diễn ra theo nhiều cách khác nhau, vì mỗi người, trong mọi chiều kích cá nhân[21], tìm cách hiểu thế giới, liên hệ với người khác, giải quyết vấn đề, thể hiện sự sáng tạo và theo đuổi hạnh phúc toàn diện thông qua sự tương tác hài hòa của các chiều kích khác nhau của trí thông minh của một người[22]. Điều này liên quan đến khả năng logic và ngôn ngữ nhưng cũng có thể bao gồm các phương thức tương tác khác với thực tại. Hãy xem xét công việc của một nghệ nhân, người "phải biết cách phân biệt, trong vật chất bất động, một hình thức cụ thể mà người khác không thể nhận ra"[23] và đưa nó ra ngoài thông qua sự hiểu biết sâu sắc và kỹ năng thực tế. Những dân tộc bản địa sống gần gũi với “Mẹ đất” thường có ý thức sâu sắc về thiên nhiên và các chu kỳ của nó[24]. Tương tự, một người bạn biết nói đúng lời vào đúng thời điểm hay một người giỏi quản lý các mối tương quan của con người là ví dụ về một trí thông minh là “trái ngọt của sự tự vấn nội tâm, đối thoại và gặp gỡ rộng lượng giữa con người với nhau”[25]. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhận xét, “trong thời đại trí tuệ nhân tạo này, chúng ta không thể quên rằng thơ ca và tình yêu là cần thiết để cứu rỗi nhân loại của chúng ta”[26].

28. Trọng tâm của sự hiểu biết Kitô giáo về trí thông minh là sự kết hợp chân lý vào đời sống đạo đức và tinh thần của con người, hướng dẫn hành động của người đó theo ánh sáng của sự thiện hảo và chân lý của Chúa. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, trí thông minh, theo nghĩa đầy đủ nhất của nó, cũng bao gồm khả năng thưởng thức những gì là chân, thiện và mỹ. Như nhà thơ người Pháp thế kỷ XX Paul Claudel đã diễn đạt, “trí thông minh không là gì nếu không có niềm vui”[27]. Tương tự như vậy, Dante, khi đạt đến cõi cao nhất trong Paradiso, đã chứng minh rằng đỉnh cao của niềm vui trí tuệ này được tìm thấy trong “ánh sáng trí tuệ tràn đầy tình yêu, tình yêu đối với điều thiện đích thực tràn đầy niềm vui, niềm vui vượt qua mọi sự ngọt ngào”[28].

29. Do đó, hiểu biết đúng đắn về trí thông minh của con người không thể bị giản lược thành việc tiếp thu các sự kiện hoặc khả năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Thay vào đó, nó liên quan đến sự cởi mở của con người đối với những câu hỏi cuối cùng của cuộc sống và phản ánh định hướng hướng tới Chân Lý và Sự Thiện[29]. Là biểu hiện của hình ảnh thiêng liêng bên trong con người, trí thông minh của con người có khả năng tiếp cận toàn bộ bản thể, chiêm ngắm sự hiện hữu trong tính toàn vẹn của nó, vượt ra ngoài những gì có thể đo lường được, và nắm bắt ý nghĩa của những gì đã được hiểu. Đối với những người tin, một cách đặc biệt, khả năng này bao gồm, khả năng phát triển trong sự hiểu biết về các mầu nhiệm của Thiên Chúa bằng cách sử dụng lý trí để tham gia sâu sắc hơn vào các chân lý được mặc khải (intellectus fidei)[30]. Trí thông minh đích thực được tạo nên bởi tình yêu thánh thiêng, “được đổ đầy trong lòng chúng ta bởi Chúa Thánh Thần” (Rm 5,5). Từ đó, suy ra rằng trí thông minh của con người sở hữu một chiều kích chiêm nghiệm thiết yếu, một sự cởi mở vô vị kỷ đối với Chân, Thiện và Mỹ, vượt ra ngoài bất kỳ mục đích thực dụng nào.

Giới hạn của AI

30. Dựa theo thảo luận trên, sự khác biệt giữa trí thông minh của con người và các hệ thống AI hiện tại trở nên rõ ràng. Trong khi AI là một thành tựu công nghệ phi thường có khả năng mô phỏng một số đầu ra liên quan đến trí thông minh của con người, thì nó hoạt động bằng cách thực hiện các nhiệm vụ, đạt được mục tiêu hoặc đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu định lượng và logic tính toán. Ví dụ, với sức mạnh phân tích của mình, AI vượt trội trong việc tích hợp dữ liệu từ nhiều lĩnh vực, mô hình hóa các hệ thống phức tạp và thúc đẩy các kết nối liên ngành. Theo cách này, nó có thể giúp các chuyên gia hợp tác giải quyết các vấn đề phức tạp mà “không thể giải quyết từ một góc nhìn duy nhất hoặc từ một tập hợp lợi ích duy nhất”[31].

31. Tuy nhiên, ngay cả khi AI xử lý và mô phỏng một số biểu hiện trí thông minh nhất định, về cơ bản nó vẫn bị giới hạn trong một khuôn khổ logic-toán học, áp đặt những hạn chế cố hữu. Ngược lại, trí thông minh của con người phát triển một cách tự nhiên trong suốt quá trình phát triển thể lý và tâm lý của con người, được hình thành bởi vô số trải nghiệm sống cụ thể. Mặc dù các hệ thống AI tiên tiến có thể "học" thông qua các quy trình như máy học, nhưng loại hình đào tạo này về cơ bản khác với sự phát triển trí tuệ của con người, được hình thành bởi các kinh nghiệm nhục thể, bao gồm cảm nhận giác quan, phản ứng cảm xúc, tương tác xã hội và bối cảnh độc đáo của từng khoảnh khắc. Những yếu tố này định hình và hình thành nên cá nhân tính trong lịch sử cá nhân của họ. Ngược lại, AI, không có cơ thể vật lý, dựa vào lý luận tính toán và học tập dựa trên các tập dữ liệu khổng lồ bao gồm các kinh nghiệm và kiến ​​thức được ghi lại của con người.

32. Do đó, mặc dù AI có thể mô phỏng các khía cạnh lý luận của con người và thực hiện các nhiệm vụ cụ thể với tốc độ và hiệu quả đáng kinh ngạc, nhưng khả năng tính toán của nó chỉ chiếm một phần nhỏ trong khả năng rộng lớn hơn của trí óc con người. Ví dụ, AI hiện không thể tái tạo khả năng phân biệt đạo đức hoặc khả năng thiết lập các mối tương quan chân thực. Hơn nữa, trí thông minh của con người nằm trong lịch sử cá nhân về sự hình thành trí tuệ và đạo đức, về cơ bản định hình quan điểm của cá nhân, bao gồm các chiều kích thể chất, cảm xúc, xã hội, đạo đức và tinh thần của cuộc sống. Vì AI không thể cung cấp sự hiểu biết đầy đủ này, nên các phương pháp chỉ dựa vào công nghệ này hoặc coi nó là phương tiện chính để diễn giải thế giới có thể dẫn đến "mất đi sự trân trọng đối với toàn thể, đối với các mối tương quan giữa mọi thứ và đối với chân trời rộng lớn hơn"[32].

33. Trí thông minh của con người không chủ yếu là hoàn thành các nhiệm vụ chức năng mà là hiểu biết và tích cực tham gia vào thực tế trong mọi chiều kích của nó; nó cũng có khả năng đưa ra những hiểu biết đáng kinh ngạc. Vì AI thiếu sự phong phú về vật chất tính, tương quan tính và sự cởi mở của trái tim con người với chân lý và điều thiện hảo, nên khả năng của nó —mặc dù có vẻ vô hạn — không thể so sánh với khả năng nắm bắt thực tại của con người. Có thể học được rất nhiều điều từ một căn bệnh, một cái ôm hòa giải và thậm chí từ một buổi hoàng hôn giản dị; thực sự, nhiều kinh nghiệm mà chúng ta có với tư cách là con người mở ra những chân trời mới và mang đến khả năng đạt được trí tuệ mới. Không có thiết bị nào, chỉ hoạt động với dữ liệu, có thể đo lường được những kinh nghiệm này và vô số kinh nghiệm khác hiện diện trong cuộc sống của chúng ta.

34. Việc đưa ra sự tương đương quá gần giữa trí thông minh của con người và AI có nguy cơ khuất phục trước quan điểm duy chức năng, trong đó con người được đánh giá dựa trên công việc họ có thể thực hiện. Tuy nhiên, giá trị của một người không phụ thuộc vào việc sở hữu các kỹ năng cụ thể, những thành tựu về nhận thức và công nghệ, hay thành công cá nhân, mà phụ thuộc vào phẩm giá vốn có của người đó, được xây dựng dựa trên việc được tạo ra theo hình ảnh của Chúa[33]. Phẩm giá này vẫn nguyên vẹn trong mọi hoàn cảnh, kể cả đối với những người không thể thực hiện khả năng của mình, cho dù đó là một đứa trẻ chưa chào đời, một người bất tỉnh hay một người lớn tuổi đang đau khổ[34]. Nó cũng củng cố truyền thống về quyền con người (và đặc biệt là những gì hiện được gọi là "quyền thần kinh" [neuro-rights]), đại diện cho "một điểm hội tụ quan trọng trong quá trình tìm kiếm tiếng nói chung"[35] và do đó, có thể đóng vai trò hướng dẫn đạo đức cơ bản trong các cuộc thảo luận về sự phát triển và sử dụng AI có trách nhiệm.

35. Xem xét tất cả những điểm này, như Đức Giáo hoàng Phanxicô nhận xét, “việc sử dụng chính từ 'trí tuệ’” liên quan đến AI “có thể gây hiểu lầm”[36] và có nguy cơ bỏ qua điều quý giá nhất ở con người. Theo quan điểm này, AI không nên được coi là một dạng trí thông minh nhân tạo của con người mà là sản phẩm của trí tuệ con người[37].

IV. Vai trò của đạo đức trong việc hướng dẫn phát triển và sử dụng AI

36. Với những cân nhắc này, người ta có thể hỏi: AI có thể được hiểu như thế nào trong kế hoạch của Thiên Chúa? Để trả lời câu hỏi này, điều quan trọng là phải nhớ rằng hoạt động khoa học công nghệ không mang tính trung lập mà là nỗ lực của con người, liên quan đến các chiều kích nhân văn và văn hóa của sự sáng tạo của con người[38].

37. Được coi là thành quả của tiềm năng được ghi khắc trong trí thông minh của con người[39], nghiên cứu khoa học và phát triển các kỹ năng kỹ thuật là một phần của “sự hợp tác giữa những người nam và người nữ với Thiên Chúa trong việc hoàn thiện các thụ tạo hữu hình”[40]. Đồng thời, tất cả các thành tựu khoa học và công nghệ, về cơ bản, đều là quà tặng từ Thiên Chúa[41]. Do đó, con người phải luôn sử dụng khả năng của mình theo mục đích cao cả hơn mà Chúa đã ban cho họ[42].

38. Chúng ta có thể tạ ơn và thừa nhận rằng công nghệ đã “khắc phục vô số điều xấu từng gây hại và hạn chế con người”[43], một thực tế mà chúng ta nên vui mừng. Tuy nhiên, không phải mọi tiến bộ công nghệ tự thân đều đại diện cho sự tiến bộ thực sự của con người[44]. Giáo hội đặc biệt phản đối những ứng dụng đe dọa đến tính thiêng liêng của sự sống hoặc phẩm giá của con người[45]. Giống như bất kỳ nỗ lực nào của con người, phát triển công nghệ phải hướng đến mục tiêu phục vụ con người và góp phần theo đuổi “công lý lớn hơn, tình huynh đệ rộng rãi hơn và trật tự nhân đạo hơn trong các mối tương quan xã hội”, “có giá trị hơn những tiến bộ trong lĩnh vực kỹ thuật”[46]. Những lo ngại về ý nghĩa đạo đức của sự phát triển công nghệ không chỉ được chia sẻ trong Giáo hội mà còn giữa nhiều nhà khoa học, chuyên gia công nghệ và nhóm chuyên môn, họ luôn kêu gọi suy tư về đạo đức để hướng dẫn sự phát triển này theo cách có trách nhiệm.

39. Để giải quyết những thách thức này, điều cần thiết là phải nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm đạo đức dựa trên phẩm giá và ơn gọi của con người. Nguyên tắc chỉ đạo này cũng áp dụng cho các câu hỏi liên quan đến AI. Trong bối cảnh này, chiều kích đạo đức có tầm quan trọng hàng đầu vì chính con người thiết kế các hệ thống và xác định mục đích sử dụng chúng[47]. Giữa máy móc và con người, chỉ có con người mới thực sự là tác nhân đạo đức—chủ thể của trách nhiệm đạo đức, người thực hiện quyền tự do trong các quyết định của mình và chấp nhận hậu quả của chúng[48]. Không phải máy móc mà chính con người mới là người có tương quan với chân lý và điều thiện hảo, được hướng dẫn bởi lương tâm đạo đức kêu gọi con người “yêu thương và làm điều thiện, tránh điều ác”[49] làm chứng cho “quyền uy của chân lý liên quan đến Sự Thiện tối cao mà con người hướng đến”[50]. Tương tự như vậy, giữa máy móc và con người, chỉ có con người mới có thể tự nhận thức đủ để lắng nghe và tuân theo tiếng nói của lương tâm, phân định một cách thận trọng và tìm kiếm điều tốt có thể có trong mọi tình huống[51]. Trên thực tế, tất cả những điều này cũng thuộc về việc rèn luyện trí thông minh của con người.

40. Giống như bất kỳ sản phẩm nào trong sự sáng tạo của con người, AI có thể hướng đến mục đích tích cực hoặc tiêu cực[52]. Khi được sử dụng theo cách tôn trọng phẩm giá con người và thúc đẩy phúc lợi của cá nhân và cộng đồng, AI có thể đóng góp tích cực vào thiên chức của con người. Tuy nhiên, giống như trong mọi lĩnh vực mà con người được kêu gọi đưa ra quyết định, bóng ma của cái ác cũng lờ mờ ở đây. Khi tự do của con người cho phép khả năng lựa chọn điều gì là sai, thì việc đánh giá đạo đức về công nghệ này sẽ cần phải tính đến cách nó được định hướng và sử dụng.

41. Đồng thời, không chỉ mục đích có ý nghĩa về mặt đạo đức mà cả phương tiện được sử dụng để đạt được mục đích đó cũng quan trọng. Ngoài ra, tầm nhìn và sự hiểu biết tổng thể về con người được nhúng trong các hệ thống này cũng rất quan trọng cần xem xét. Các sản phẩm công nghệ phản ánh thế giới quan của các nhà phát triển, chủ sở hữu, người dùng và cơ quan quản lý của chúng[53] và có khả năng “định hình thế giới và thu hút lương tâm ở cấp độ giá trị”[54]. Ở cấp độ xã hội, một số phát triển công nghệ cũng có thể củng cố các mối tương quan và động cơ quyền lực không phù hợp với sự hiểu biết đúng đắn về con người và xã hội.

42. Do đó, mục đích và phương tiện được sử dụng trong một ứng dụng AI nhất định, cũng như tầm nhìn tổng thể mà nó kết hợp, đều phải được đánh giá để đảm bảo chúng tôn trọng phẩm giá con người và thúc đẩy lợi ích chung[55]. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố, “phẩm giá nội tại của mọi người nam và người nữ” phải là “tiêu chuẩn chính trong việc đánh giá các công nghệ mới nổi; chúng sẽ chứng minh được tính hợp lý về mặt đạo đức trong phạm vi chúng giúp tôn trọng phẩm giá đó và tăng cường biểu hiện của nó ở mọi cấp độ của cuộc sống con người”[56], bao gồm cả trong các lĩnh vực xã hội và kinh tế. Theo nghĩa này, trí thông minh của con người đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc thiết kế và sản xuất công nghệ mà còn trong việc hướng dẫn việc sử dụng công nghệ phù hợp với lợi ích đích thực của con người[57]. Trách nhiệm quản lý điều này một cách khôn ngoan thuộc về mọi cấp độ của xã hội, được hướng dẫn bởi nguyên tắc phụ thuộc tính độc đáo và các nguyên tắc khác của Giáo huấn xã hội Công giáo.

Hỗ trợ tự do và quyết định của con người

43. Cam kết đảm bảo rằng AI luôn hỗ trợ và thúc đẩy giá trị tối cao của phẩm giá mỗi con người và sự trọn vẹn của ơn gọi con người là một tiêu chuẩn phân định dành cho các nhà phát triển, chủ sở hữu, người vận hành và cơ quan quản lý AI, cũng như cho những người dùng AI. Tiêu chuẩn này vẫn có giá trị đối với mọi ứng dụng của công nghệ ở mọi cấp độ sử dụng.

44. Việc đánh giá những hệ quả của nguyên tắc hướng dẫn này có thể bắt đầu từ việc xem xét tầm quan trọng của trách nhiệm luân lý. Vì chỉ những chủ thể có nhân vị mới có đầy đủ tính nhân quả luân lý, chứ không phải các thực thể nhân tạo, nên điều cốt yếu là phải xác định ai chịu trách nhiệm đối với các quá trình liên quan đến AI, đặc biệt là những hệ thống có khả năng học hỏi, điều chỉnh và tái lập trình. Dù các phương pháp tiếp cận từ dưới lên và những mạng nơron rất sâu có thể giúp AI giải quyết các vấn đề phức tạp, nhưng chúng lại khiến việc hiểu rõ các quá trình dẫn đến những giải pháp mà AI chọn trở nên khó khăn hơn. Điều này làm phức tạp hóa vấn đề trách nhiệm, bởi nếu một ứng dụng AI tạo ra kết quả ngoài ý muốn, việc xác định ai phải chịu trách nhiệm sẽ trở nên khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, cần chú ý đến bản chất của các quy trình trách nhiệm trong những môi trường tự động hóa cao và phức tạp, nơi mà các kết quả có thể chỉ trở nên rõ ràng trong trung hạn hoặc dài hạn. Vì thế, điều quan trọng là trách nhiệm cuối cùng đối với các quyết định sử dụng AI phải thuộc về con người, và phải có cơ chế giải trình rõ ràng cho việc sử dụng AI ở từng giai đoạn trong quá trình ra quyết định[58]

45. Ngoài việc xác định ai chịu trách nhiệm, điều quan trọng không kém là xác định các mục tiêu được giao cho các hệ thống AI. Dù các hệ thống này có thể sử dụng cơ chế học tập tự động không giám sát và đôi khi đi theo những con đường mà con người không thể tái hiện, nhưng sau cùng chúng vẫn theo đuổi những mục tiêu do con người đặt ra và vận hành theo các quy trình được các nhà thiết kế và lập trình viên định sẵn. Tuy nhiên, điều này đặt ra một thách thức lớn, vì khi các mô hình AI ngày càng có khả năng học tập độc lập, thì khả năng duy trì quyền kiểm soát đối với chúng để đảm bảo chúng phục vụ lợi ích con người có thể bị suy giảm đáng kể. Điều này đặt ra câu hỏi trọng yếu về cách đảm bảo rằng các hệ thống AI được định hướng vì lợi ích con người, chứ không chống lại họ.

46. Trong khi trách nhiệm về việc sử dụng AI một cách đạo đức không chỉ thuộc về những người phát triển, sản xuất, quản lý và giám sát các hệ thống này mà còn thuộc về cả những người sử dụng chúng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý: “Máy móc đưa ra lựa chọn kỹ thuật giữa nhiều khả năng dựa trên các tiêu chí rõ ràng hoặc suy luận thống kê. Tuy nhiên, con người không chỉ chọn lựa, mà trong tâm hồn còn có khả năng quyết định”[59]. Những người sử dụng AI để hoàn thành một nhiệm vụ và làm theo kết quả của nó đang tạo ra một bối cảnh trong đó họ phải chịu trách nhiệm cuối cùng về quyền lực mà họ đã ủy thác. Vì vậy, dù AI có thể hỗ trợ con người trong việc đưa ra quyết định, nhưng các thuật toán điều khiển AI cần phải đáng tin cậy, an toàn, đủ mạnh để xử lý các mâu thuẫn, và minh bạch trong hoạt động nhằm giảm thiểu sự thiên vị và những hậu quả không mong muốn[60]. Các khuôn khổ quản lý cũng cần đảm bảo rằng mọi thực thể pháp lý đều chịu trách nhiệm về việc sử dụng AI và mọi hệ quả của nó, với những biện pháp bảo vệ phù hợp để đảm bảo tính minh bạch, quyền riêng tư và trách nhiệm giải trình[61] Hơn nữa, những người sử dụng AI cần cẩn trọng để không quá lệ thuộc vào nó trong việc ra quyết định của mình, một xu hướng làm tăng sự phụ thuộc vốn đã cao của xã hội đương đại vào công nghệ.

47. Giáo huấn luân lý và xã hội của Giáo hội cung cấp những nguồn lực để đảm bảo rằng AI được sử dụng theo cách bảo toàn quyền tự quyết của con người. Chẳng hạn, các cân nhắc về công lý cần đề cập đến những vấn đề như thúc đẩy động lực xã hội công bằng, bảo đảm an ninh quốc tế và cổ vũ hòa bình. Bằng việc thực hành nhân đức khôn ngoan, các cá nhân và cộng đồng có thể phân định cách sử dụng AI để phục vụ nhân loại, đồng thời tránh những ứng dụng có thể làm suy giảm phẩm giá con người hoặc gây tổn hại đến môi trường. Trong bối cảnh này, trách nhiệm không chỉ được hiểu theo nghĩa hạn chế, mà còn mang ý nghĩa rộng hơn là “trách nhiệm chăm sóc người khác, vượt xa việc chỉ đơn thuần tính toán kết quả đạt được.”[62]

48. Vì thế, AI, cũng như mọi công nghệ khác, có thể là một phần trong câu trả lời có ý thức và trách nhiệm của con người đối với ơn gọi sống điều thiện hảo. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đó, AI cần phải được hướng dẫn bởi trí tuệ con người để phù hợp với ơn gọi này, đảm bảo rằng nó tôn trọng phẩm giá con người. Nhận thức được “phẩm giá cao quý” này, Công đồng Vatican II khẳng định rằng “trật tự xã hội và sự phát triển của nó phải luôn luôn phục vụ lợi ích con người”[63]. Theo quan điểm này, việc sử dụng AI, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh, cần phải “được đồng hành bởi một nền luân lý lấy cảm hứng từ tầm nhìn về lợi ích chung, một nền luân lý của tự do, trách nhiệm và huynh đệ, có khả năng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người trong tương quan với tha nhân và toàn thể tạo thành.”[64]

V. Các câu hỏi cụ thể

49. Trong viễn cảnh tổng quát này, một số nhận định dưới đây được đưa ra nhằm minh họa cách thức các lập luận trước có thể giúp định hướng đạo đức trong những tình huống thực tiễn, phù hợp với “sự khôn ngoan của con tim” mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề xuất.[65] Dù không mang tính toàn diện, cuộc thảo luận này được trình bày để phục vụ đối thoại, hướng đến việc cân nhắc cách AI có thể được sử dụng để nâng cao phẩm giá con người và thăng tiến thiện ích chung.[66]

AI và xã hội

50. Như Đức Thánh Cha Phanxicô nhận định, “Phẩm giá nội tại của mỗi con người và tình huynh đệ gắn kết chúng ta như những thành viên của gia đình nhân loại phải là nền tảng cho sự phát triển của các công nghệ mới và đóng vai trò là tiêu chí không thể bác bỏ trong việc lượng giá chúng trước khi sử dụng.”[67]

51. Dưới góc nhìn này, AI có thể “mang lại những đổi mới quan trọng trong nông nghiệp, giáo dục và văn hóa, cải thiện mức sống cho các dân tộc và quốc gia, đồng thời thúc đẩy tình huynh đệ và tình bạn trong xã hội loài người” qua đó “được sử dụng để thăng tiến sự phát triển con người toàn diện”[68]. AI cũng có thể giúp các tổ chức xác định những người đang gặp khó khăn và chống lại sự phân biệt đối xử cũng như tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội. Những ứng dụng này và các ứng dụng tương tự khác của công nghệ này có thể đóng góp vào sự phát triển con người và thiện ích chung[69].

52. Tuy nhiên, dù AI mang lại nhiều tiềm năng để cổ võ những điều tốt lành, nhưng nó cũng có thể cản trở, thậm chí đi ngược lại sự phát triển con người và thiện ích chung. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý rằng “các bằng chứng hiện nay cho thấy các công nghệ kỹ thuật số đã làm gia tăng bất bình đẳng trong thế giới của chúng ta. Không chỉ là sự khác biệt về của cải vật chất, vốn cũng rất đáng kể, mà còn cả sự chênh lệch trong việc tiếp cận ảnh hưởng chính trị và xã hội”[70]. Theo nghĩa này, AI có thể bị lợi dụng để duy trì tình trạng bị gạt ra bên lề và phân biệt đối xử, tạo ra những hình thức nghèo đói mới, mở rộng “khoảng cách số” và làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng xã hội vốn có[71].

53. Hơn nữa, việc tập trung quyền kiểm soát các ứng dụng AI chính thống vào tay một số ít công ty quyền lực đặt ra những quan ngại nghiêm trọng về đạo đức. Vấn đề này càng trở nên trầm trọng do bản chất nội tại của các hệ thống AI, khi không một cá nhân nào có thể giám sát hoàn toàn các tập dữ liệu khổng lồ và phức tạp được sử dụng trong quá trình tính toán. Sự thiếu vắng trách nhiệm giải trình rõ ràng này tạo ra nguy cơ AI có thể bị thao túng vì lợi ích cá nhân hoặc doanh nghiệp, hoặc để định hướng dư luận nhằm phục vụ một ngành công nghiệp cụ thể. Các thực thể này, khi bị chi phối bởi lợi ích riêng của mình, có thể thực hiện “những hình thức kiểm soát tinh vi nhưng cũng xâm phạm sâu sắc, tạo ra các cơ chế thao túng lương tâm và tiến trình dân chủ”[72].

54. Hơn nữa, còn có nguy cơ AI được sử dụng để củng cố điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “mô hình kỹ trị” (technocratic paradigm), tức là lối tư duy cho rằng mọi vấn đề trên thế giới đều có thể được giải quyết chỉ bằng các phương tiện công nghệ[73]. Trong mô hình này, phẩm giá con người và tình huynh đệ thường bị gạt sang một bên nhân danh hiệu suất, “cứ như thể là điều thiện hảo và chân lý tự động tuôn trào từ sức mạnh công nghệ và kinh tế”[74]. Tuy nhiên, phẩm giá con người và thiện ích chung không bao giờ được phép bị xâm phạm vì lý do hiệu suất,[75] bởi vì “những tiến bộ công nghệ không dẫn đến sự cải thiện chất lượng cuộc sống của toàn thể nhân loại, mà trái lại, làm trầm trọng thêm bất bình đẳng và xung đột, thì không bao giờ có thể được xem là tiến bộ thực sự”[76]. Do đó, AI cần phải được đặt ra để “phục vụ một hình thức tiến bộ khác, một hình thức tiến bộ lành mạnh hơn, nhân bản hơn, mang tính xã hội hơn, và toàn diện hơn”[77].

55. Để đạt được mục tiêu này, cần có một suy tư sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa tính tự chủ và trách nhiệm. Khi mức độ tự chủ gia tăng, trách nhiệm của mỗi người đối với các khía cạnh khác nhau của đời sống cộng đồng cũng trở nên lớn hơn. Đối với Kitô hữu, nền tảng của trách nhiệm này nằm ở sự nhận biết rằng mọi khả năng của con người, bao gồm cả sự tự chủ, đều đến từ Thiên Chúa và được trao ban để phục vụ tha nhân[78]. Vì vậy, thay vì chỉ theo đuổi các mục tiêu kinh tế hoặc công nghệ, AI phải phục vụ “thiện ích chung của toàn thể gia đình nhân loại,” vốn là “tổng hòa các điều kiện xã hội cho phép con người, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, đạt được sự viên mãn cách trọn vẹn và dễ dàng hơn”[79].

AI và Các mối tương quan của con người

56. Công đồng Vatican II nhận định rằng: “Tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không tương quan với tha nhân, con người không thể sống cũng như không thể phát triển các phẩm chất của mình được”[80]. Xác tín này nhấn mạnh rằng việc sống trong xã hội là điều nội tại đối với bản tính và ơn gọi của con người[81]. Là những hữu thể có tính xã hội, chúng ta kiếm tìm các mối tương quan bao hàm sự trao đổi lẫn nhau và theo đuổi chân lý, trong đó con người “chia sẻ với nhau chân lý mà họ đã khám phá hoặc nghĩ rằng họ đã khám phá, theo cách giúp họ nâng đỡ nhau trong hành trình tìm kiếm chân lý”[82].

57. Hành trình tìm kiếm này, cùng với các khía cạnh khác của giao tiếp giữa con người, đòi hỏi những cuộc gặp gỡ và trao đổi lẫn nhau giữa các cá nhân, vốn được hình thành qua lịch sử, tư tưởng, xác tín và các mối quan hệ độc đáo của mỗi người. Chúng ta cũng không thể quên rằng trí khôn con người là một thực tại phong phú, đa chiều và phức tạp: vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội, vừa lý tính vừa cảm xúc, vừa khái niệm vừa biểu tượng. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến chiều kích năng động này khi nhận định rằng: “Trong đối thoại, dù nhẹ nhàng trao đổi hay sôi nổi tranh cãi, chúng ta đều có thể cùng nhau tìm kiếm sự thật. Điều này đòi hỏi phải bền tâm, cũng như đòi hỏi những phút giây lặng thinh và gian khổ, có khả năng kiên trì đón nhận vô vàn kinh nghiệm của các cá nhân và các dân tộc. […] Tiến trình xây dựng tình huynh đệ, dù mang tính địa phương hay phổ quát, chỉ có thể được thực hiện nhờ tinh thần tự do và cởi mở hướng tới những cuộc gặp gỡ đích thực”[83].

58. Chính trong bối cảnh này mà ta có thể xem xét những thách đố mà AI đặt ra đối với các mối tương quan của con người. Cũng như các công cụ công nghệ khác, AI có tiềm năng giúp tăng cường sự kết nối trong gia đình nhân loại. Tuy nhiên, nó cũng có thể cản trở con người gặp gỡ thực tại cách chân thực và, sau cùng, dẫn đến “một sự bất mãn sâu xa và đầy u sầu trong các mối tương quan liên vị, hoặc một cảm giác cô lập đầy tổn hại”[84]. Các mối tương quan đích thực của con người đòi hỏi sự phong phú của việc hiện diện với tha nhân trong nỗi đau, lời cầu xin và niềm vui của họ[85]. Vì trí khôn con người được biểu lộ và phong phú cả trong tương quan liên vị và qua sự hiện diện cụ thể, nên những cuộc gặp gỡ chân thực và tự phát với tha nhân là điều không thể thiếu để con người tiếp cận thực tại cách trọn vẹn.

59. Bởi lẽ “sự khôn ngoan đích thực đòi hỏi một cuộc gặp gỡ với thực tại”[86], nên sự phát triển của AI đặt ra một thách đố khác. Vì AI có thể bắt chước hiệu quả các sản phẩm của trí khôn con người, nên khả năng nhận biết khi nào ta đang tương tác với một con người hay một cỗ máy không còn là điều hiển nhiên. AI tạo sinh có thể sản xuất văn bản, giọng nói, hình ảnh và các sản phẩm cao cấp khác vốn thường được gán cho con người. Tuy nhiên, cần phải hiểu AI đúng bản chất của nó: một công cụ, chứ không phải một con người[87]. Sự phân biệt này thường bị lu mờ bởi ngôn ngữ mà những người phát triển AI sử dụng, khi họ có xu hướng nhân cách hóa AI, khiến ranh giới giữa con người và máy móc trở nên mơ hồ.

60. Việc nhân cách hóa AI cũng đặt ra những thách đố cụ thể đối với sự phát triển của trẻ em, vì nó có thể khuyến khích các em hình thành những kiểu tương tác mang tính giao dịch, giống như cách người ta tương tác với chatbot. Những thói quen này có thể khiến người trẻ nhìn nhận giáo viên chỉ như những người cung cấp thông tin, thay vì là những người cố vấn hướng dẫn và nuôi dưỡng sự phát triển trí tuệ cũng như đạo đức của họ. Các mối tương quan đích thực, được xây dựng trên sự đồng cảm và cam kết kiên vững đối với thiện ích của tha nhân, là điều thiết yếu và không thể thay thế để giúp con người phát triển toàn diện.

61. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là phải khẳng định rõ rằng, dù có sử dụng ngôn ngữ nhân cách hóa, không một ứng dụng AI nào có thể thực sự trải nghiệm được sự đồng cảm. Cảm xúc không thể bị giản lược thành những biểu cảm trên khuôn mặt hoặc những câu nói được tạo ra theo yêu cầu; chúng phản ánh cách một con người, như một tổng thể, liên hệ với thế giới và với chính cuộc sống của mình, trong đó thân xác đóng một vai trò trung tâm. Đồng cảm đích thực đòi hỏi khả năng lắng nghe, nhận ra tính duy nhất không thể thay thế của tha nhân, đón nhận sự khác biệt của họ, và thấu hiểu ý nghĩa ngay cả khi họ thinh lặng[88]. Không giống như lĩnh vực phán đoán phân tích, nơi AI có thể vượt trội, sự đồng cảm đích thực thuộc về phạm vi tương quan. Nó liên quan đến trực giác và thấu hiểu những kinh nghiệm sống của tha nhân, đồng thời vẫn duy trì sự phân biệt giữa bản thân và người khác[89]. Trong khi AI có thể mô phỏng những phản ứng mang tính đồng cảm, nó không thể tái tạo bản chất cá vị và liên vị của sự đồng cảm đích thực[90].

62. Trước những điều đã nêu trên, rõ ràng là ta phải luôn tránh việc mô tả sai AI như một con người; nếu làm vậy với mục đích lừa đảo, thì đó là một hành vi vi phạm đạo đức nghiêm trọng, có thể làm xói mòn sự tin tưởng trong xã hội. Tương tự, việc sử dụng AI để lừa dối trong các lĩnh vực khác — chẳng hạn trong giáo dục hoặc trong các mối tương quan của con người, bao gồm cả lĩnh vực tính dục — cũng bị xem là điều vô luân và đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ để ngăn chặn tác hại, bảo đảm tính minh bạch và duy trì phẩm giá của mọi người[91].

63. Trong một thế giới ngày càng trở nên cô lập, một số người đã tìm đến AI để kiếm tìm những mối tương quan giữa con người một cách sâu sắc, một người bầu bạn đơn thuần, hoặc thậm chí là một mối tình. Tuy nhiên, trong khi con người được tạo dựng để sống trong các mối tương quan đích thực, thì AI chỉ có thể mô phỏng chúng. Mặc dù vậy, chính những mối tương quan với tha nhân là một phần thiết yếu giúp con người trưởng thành và đạt đến sự viên mãn của chính mình. Nếu AI được sử dụng để giúp con người xây dựng những kết nối chân thực với nhau, nó có thể đóng góp tích cực vào sự triển nở toàn diện của con người. Ngược lại, nếu chúng ta thay thế mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân bằng những tương tác với công nghệ, thì ta có nguy cơ đánh đổi sự liên đới đích thực lấy một hình ảnh vô hồn (x. Tv 106,20; Rm 1,22-23). Thay vì thu mình vào những thế giới nhân tạo, chúng ta được mời gọi dấn thân cách có ý thức và có trách nhiệm với thực tại, đặc biệt qua việc đồng hành với người nghèo và đau khổ, an ủi những ai sầu khổ, và xây dựng mối dây hiệp thông với mọi người.

AI, Nền Kinh tế và Lao động

64. Do có tính liên ngành, AI đang ngày càng được tích hợp vào các hệ thống kinh tế và tài chính. Hiện nay, có những khoản đầu tư đáng kể không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn trong lĩnh vực năng lượng, tài chính và truyền thông, đặc biệt trong các lĩnh vực marketing và bán hàng, logistics, đổi mới công nghệ, tuân thủ quy định và quản lý rủi ro. Đồng thời, việc ứng dụng AI trong các lĩnh vực này cũng cho thấy bản chất mơ hồ của nó: vừa mang lại những cơ hội to lớn vừa tiềm ẩn nhiều rủi ro sâu sắc. Một điểm đáng lo ngại đầu tiên là khả năng — do sự tập trung các ứng dụng AI vào tay một số ít tập đoàn — chỉ những công ty lớn mới hưởng lợi từ giá trị do AI tạo ra, thay vì các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ này.

65. Cũng cần xem xét kỹ lưỡng các tác động rộng lớn hơn của AI đối với lĩnh vực kinh tế - tài chính, đặc biệt là sự tương tác giữa thực tế cụ thể và thế giới kỹ thuật số. Một khía cạnh quan trọng trong vấn đề này là sự tồn tại song song của nhiều hình thức thể chế kinh tế - tài chính khác nhau trong cùng một bối cảnh. Yếu tố này cần được khuyến khích vì nó có thể mang lại lợi ích khi hỗ trợ nền kinh tế thực, thúc đẩy sự phát triển và ổn định, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng các thực tại kỹ thuật số, không bị ràng buộc bởi không gian địa lý, có xu hướng đồng nhất và phi cá nhân hơn so với các cộng đồng gắn bó với một địa điểm cụ thể và một lịch sử chung, với những giá trị, hy vọng được chia sẻ, nhưng cũng có cả những bất đồng và khác biệt không thể tránh khỏi. Sự đa dạng này là một tài sản không thể phủ nhận đối với đời sống kinh tế của một cộng đồng. Việc giao phó toàn bộ nền kinh tế và tài chính cho công nghệ kỹ thuật số sẽ làm giảm đi sự phong phú và đa dạng này. Hệ quả là nhiều giải pháp cho các vấn đề kinh tế, vốn có thể đạt được thông qua đối thoại tự nhiên giữa các bên liên quan, có thể không còn khả thi trong một thế giới bị thống trị bởi các quy trình máy móc và một sự gần gũi mang tính giả tạo.

66. Một lĩnh vực khác mà AI đã và đang có tác động sâu rộng là thế giới lao động. Cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, AI đang thúc đẩy những chuyển đổi căn bản trong nhiều ngành nghề, với các tác động đa chiều. Một mặt, AI có khả năng nâng cao chuyên môn và năng suất, tạo ra việc làm mới, giúp người lao động tập trung vào các nhiệm vụ sáng tạo hơn và mở ra những chân trời mới cho sự sáng tạo và đổi mới.

67. Tuy nhiên, trong khi AI hứa hẹn nâng cao năng suất bằng cách đảm nhận các công việc đơn thuần, thì nó thường buộc người lao động phải thích nghi với tốc độ và yêu cầu của máy móc, thay vì thiết kế máy móc để hỗ trợ người lao động. Do đó, trái với những lợi ích được quảng bá, cách tiếp cận AI hiện nay có thể dẫn đến tình trạng con người bị giảm kỹ năng, bị giám sát tự động và bị đẩy vào các công việc cứng nhắc, lặp đi lặp lại. Việc phải theo kịp tốc độ của công nghệ có thể làm xói mòn khả năng chủ động của người lao động và bóp nghẹt sự sáng tạo mà lẽ ra họ cần phát huy trong công việc của mình[92].

68. AI hiện đang thay thế một số công việc từng do con người đảm nhận. Nếu AI được sử dụng để thay thế hơn là hỗ trợ con người, thì sẽ có “nguy cơ lớn là lợi ích sẽ tập trung vào một số ít người trong khi số đông bị thiệt thòi”[93]. Hơn nữa, khi AI ngày càng trở nên mạnh mẽ, giá trị của lao động con người trong lĩnh vực kinh tế có nguy cơ bị suy giảm. Đây là hệ quả tất yếu của mô hình kỹ trị: một thế giới mà nhân loại bị nô lệ hóa bởi hiệu suất, nơi cuối cùng, ngay cả tiền lương của người dân cũng bị cắt giảm. Tuy nhiên, mạng sống con người có giá trị nội tại, không phụ thuộc vào đóng góp kinh tế của họ. Thế nhưng, theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, “mô hình hiện nay dường như không ưu tiên đầu tư vào những nỗ lực giúp đỡ những người chậm chạp, yếu đuối hoặc kém tài năng có cơ hội trong cuộc sống”[94]. Do đó, “chúng ta không thể để một công cụ mạnh mẽ và không thể thiếu như Trí tuệ nhân tạo củng cố mô hình này, mà ngược lại, chúng ta phải biến Trí tuệ nhân tạo thành một thành trì chống lại sự lan rộng của nó”[95].

69. Cần nhớ rằng “trật tự của sự vật phải phục tùng trật tự của con người, chứ không phải ngược lại”[96].] Lao động không chỉ nhằm phục vụ lợi nhuận mà còn phải “phục vụ con người toàn diện […] chú ý đến cả nhu cầu vật chất lẫn các yêu cầu trí tuệ, luân lý, thiêng liêng và tôn giáo của con người”[97]. Trong bối cảnh này, Giáo hội nhìn nhận rằng lao động “không chỉ là phương tiện kiếm sống hằng ngày” mà còn là “một chiều kích thiết yếu của đời sống xã hội,” là “công cụ để phát triển cá nhân, xây dựng các mối tương quan lành mạnh, thể hiện bản thân và trao đổi những giá trị cao quý. Lao động mang lại cho con người ý thức trách nhiệm chung đối với sự phát triển của thế giới và, xét đến cùng là đối với cuộc sống chung của nhân loại”[98].

70. Vì lao động là “một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trần thế, là con đường dẫn đến sự trưởng thành, phát triển con người và hoàn thiện bản thân,” nên “mục tiêu không phải là để tiến bộ công nghệ ngày càng thay thế lao động của con người, vì điều này sẽ gây tổn hại cho nhân loại”[99] mà phải thúc đẩy con người lao động. Nhìn nhận theo góc độ này, AI nên hỗ trợ, chứ không thay thế khả năng phán đoán của con người. Tương tự, AI không bao giờ được làm suy giảm sự sáng tạo hoặc biến người lao động thành những “bánh răng trong một cỗ máy.” Do đó, “tôn trọng phẩm giá của người lao động và coi trọng việc làm đối với phúc lợi kinh tế của cá nhân, gia đình và xã hội, cũng như đảm bảo công việc ổn định và mức lương công bằng, phải là ưu tiên cao của cộng đồng quốc tế khi những công nghệ này thâm nhập ngày càng sâu vào môi trường làm việc”[100].

 

(Còn tiếp)

Chuyển ngữ: Phêrô Lê Minh Hải, OFM và Tâm Bùi


[1] Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Donum Veritatis (24 tháng 5, 1990), 6: AAS 82 (1990), 1552. X. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (06/08/1993), ss. 109: AAS 85 (1993), 1219. X. Pseudo-Dionysius, De divinis nominibus, VII, 2: PG 3, 868B-C: “Linh hồn con người cũng sở hữu lý trí và cùng với nó, họ xoay quanh diễn ngôn xung quanh sự thật của sự vật. […] [O] xét về cách mà họ có khả năng tập trung nhiều người vào một, họ cũng vậy, theo cách riêng của họ và trong chừng mực có thể, xứng đáng có những quan niệm giống như quan niệm của các thiên thần” (vi tr. Pseudo-Dionysius: Tác phẩm hoàn chỉnh, Nhà xuất bản Paulist, New York – Mahwah 1987, 106-107).

[2] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14.9.1998), s. 3: AAS 91 (1999), 7.

[3] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 15: AAS 58 (1966), 1036.

[4] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14.9.1998), s. 42: AAS 91 (1999), 38. x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 208: AAS 112 (2020), 1043: “tâm trí con người có khả năng vượt qua những mối quan tâm trước mắt và nắm bắt những sự thật nhất định không thay đổi, đúng như hiện tại cũng như trong quá khứ. Khi nhìn vào bản chất con người, lý trí khám phá ra những giá trị phổ quát bắt nguồn từ chính bản chất đó”; s. 184: AAS 112 (2020), 1034.

[5] x. B. Pascal, Pensées, s. 267 (ed. Brunschvicg): “Quy trình cuối cùng của lý trí là thừa nhận rằng có vô số sự vật nằm ngoài nó” (en. tr. Pascal's Pensées, E.P. Dutton, New York 1958, 77).

[6] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 15: AAS 58 (1966), 1036. X. Bộ Giáo lý Đức tin, Lưu ý Giáo lý về Một số Khía cạnh của Phúc âm hóa (ngày 3.12.2007), s. 4: AAS 100 (2008), 491-492.

[7] Khả năng ngữ nghĩa của chúng tôi cho phép chúng tôi hiểu các thông điệp trong bất kỳ hình thức giao tiếp nào theo cách vừa tính đến vừa vượt qua cấu trúc vật chất hoặc thực nghiệm của chúng (chẳng hạn như mã máy tính). Ở đây, trí thông minh trở thành sự khôn ngoan “giúp chúng ta nhìn mọi thứ bằng con mắt của Chúa, nhìn thấy những mối liên hệ, tình huống, sự kiện và khám phá ý nghĩa thực sự của chúng” (Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp cho Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới LVIII [ngày 24.1.2024]: L'Osservatore Romano, ngày 24.1.2024, 8). Sự sáng tạo của chúng tôi cho phép chúng tôi tạo ra nội dung hoặc ý tưởng mới, chủ yếu bằng cách đưa ra quan điểm nguyên bản về thực tế. Cả hai năng lực này đều phụ thuộc vào sự tồn tại của tính chủ quan cá nhân để chúng được thể hiện đầy đủ.

[8] Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae (ngày 7.12.1965), s. 3: AAS 58 (1966), 931.

[9] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 184: AAS 112 (2020), 1034: “Bác ái, khi đi kèm với sự cam kết với sự thật, không chỉ là cảm xúc cá nhân […]. Thật vậy, mối quan hệ chặt chẽ của nó với sự thật thúc đẩy tính phổ quát của nó và bảo vệ nó khỏi 'bị giới hạn trong một lĩnh vực hẹp thiếu vắng các mối tương quan' […] Sự cởi mở của đức ái đối với sự thật do đó đã bảo vệ nó khỏi 'một chủ nghĩa tín ngưỡng vốn tước đi chiều rộng nhân bản và phổ quát của nó.'” Các trích dẫn nội bộ được lấy từ Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (ngày 29.6.2009), ss. 2-4: AAS 101 (2009), 642-643.

[10] x. Ủy ban Thần học Quốc tế, Hiệp thông và Quản lý: Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (2004), s. 7.

[11] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14.9.1998), s. 13: AAS 91 (1999), 15. x. Bộ Giáo lý Đức tin, Lưu ý Giáo lý về Một số Khía cạnh của Phúc âm hóa (ngày 3.12.2007), s. 4: AAS 100 (2008), 491-492.

[12] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14.9.1998), s. 13: AAS 91 (1999), 15.

[13] Bônaventura, In II Librum Sententiarum, d. I, tr. 2, A. 2, q. 1; như được trích dẫn trong Giáo lý Hội thánh Công giáo, ss. 293 - 294.

[14] x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, pars. 295, 299, 302. Bônaventura ví vũ trụ như “một cuốn sách phản ánh, trình bày và mô tả Đấng Tạo Hóa của nó,” Thiên Chúa Ba Ngôi ban sự tồn tại cho vạn vật (Breviloquium 2.12.1). Cf. Alain de Lille, De Incarnatione Christi, PL 210, 579a: “Omnis mundi creatura quasi liber et pictura nobis est et speculum.”

[15] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 67: AAS 107 (2015), 874; Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (ngày 14.9.1981), s. 6: AAS 73 (1981), 589-592; Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), ss. 33-34: AAS 58 (1966), 1052-1053; Ủy ban Thần học Quốc tế, Hiệp thông và Quản lý: Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (2004), s. 57: “con người chiếm một vị trí độc nhất trong vũ trụ theo kế hoạch của Thiên Chúa: họ được hưởng đặc ân được chia sẻ quyền quản trị của Thiên Chúa đối với tạo vật hữu hình. […] Vì vị trí cai trị của con người trên thực tế là sự tham gia vào sự quản lý thánh thiêng của công trình sáng tạo, nên ở đây chúng tôi nói đến nó như một hình thức quản lý.”

[16] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (ngày 6.8.1993), ss. 38-39: AAS 85 (1993), 1164-1165.

[17] x. Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), ss. 33-34: AAS 58 (1966), 1052-1053. Ý tưởng này cũng được phản ánh trong trình thuật sáng tạo, khi Thiên Chúa đem các tạo vật đến gặp Ađam “để xem ông sẽ gọi chúng là gì. Và bất cứ điều gì [ông] gọi mọi sinh vật sống, đó là tên của nó” (St 2,19), một hành động thể hiện sự tham gia tích cực của trí tuệ con người vào việc quản lý công trình sáng tạo của Thiên Chúa. x. John Chrysostom, Homiliae in Genesim, XIV, 17-21: PG 53, 116-117.

[18] x. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, s. 301.

[19] x. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, s. 302.

[20] Bônaventura, Breviloquium 2.12.1. nt, 2.11.2.

[21] Đức Thánh Cha. Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (ngày 24.11.2013), s. 236: AAS 105 (2023), 1115; Id., Diễn văn gửi những người tham gia Cuộc họp giữa các Tuyên úy Đại học và Nhân viên Mục vụ do Bộ Văn hóa và Giáo dục thúc đẩy (ngày 24.11.2023): L’Osservatore Romano, ngày 24.11.2023, 7.

[22] J.H. Newman, Ý tưởng về một trường đại học được xác định và minh họa, Discourse 5.1, Basil Montagu Pickering, London 18733, 99-100; Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với các Hiệu trưởng, Giáo sư, Sinh viên và Nhân viên của các Đại học và Học viện Giáo hoàng Rôma (ngày 25.2.2023): AAS 115 (2023), 316.

[23] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với các Thành viên của Liên đoàn Nghệ nhân Quốc gia và Doanh nghiệp vừa và nhỏ (CNA) (ngày 15.11.2024): L’Osservatore Romano, ngày 15.11.2024, 8.

[24] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Amazôn (ngày 2.2.2020), s. 41: AAS 112 (2020), 246; Id., Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 146: AAS 107 (2015), 906.

[25] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 47: AAS 107 (2015), 864. Xem. Id., Thông điệp Dilexit Nos (ngày 24.10.2024), s. 17-24: L’Osservatore Romano, ngày 24.10.2024, 5; Id., Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 47-50: AAS 112 (2020), 985-987.

[26] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (ngày 24.10.2024), s. 20: L’Osservatore Romano, ngày 24.10.2024, 5.

[27] P. Claudel, Conversation sur Jean Racine, Gallimard, Paris 1956, 32: “L’intelligence n’est rien sans la délectation.” Đức Thánh Cha. Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (ngày 24.10.2024), s. 13: L'Osservatore Romano, ngày 24.10.2024, 5: “Lý trí và ý chí sẵn sàng phục vụ điều tốt đẹp hơn bằng cách cảm nhận và thưởng thức sự thật.”

[28] Dante, Paradiso, Canto XXX: “luce intellettüal, piena d’amore; / amor di vero ben, pien di letizia; / letizia che trascende ogne dolzore” (en. tr. The Divine Comedy of Dante Alighieri, C.E. Norton, tr., Houghton Mifflin, Boston 1920, 232).

[29] x. Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae (ngày 7.12.1965), s. 3: AAS 58 (1966), 931: “chuẩn mực cao nhất của đời sống con người chính là luật Thiên Chúa - vĩnh cửu, khách quan và phổ quát, qua đó Thiên Chúa ra lệnh, hướng dẫn và cai trị toàn thế giới và đường lối của cộng đồng nhân loại theo một kế hoạch được hình thành trong trí tuệ và tình yêu của anh ấy. Thiên Chúa đã cho phép con người tham gia vào luật lệ này của Ngài để, dưới sự sắp đặt nhẹ nhàng của Chúa quan phòng, nhiều người có thể đạt được sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về sự thật bất biến.” Ngoài ra, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 16: AAS 58 (1966), 1037.

[30] x. Công đồng Vatican I, Hiến chế tín lý Dei Filius (ngày 24.4.1870), ch. 4, ĐH 3016.

[31] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 110: AAS 107 (2015), 892.

[32] Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), S. 110: AAS 107 (2015), 891. x. Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 204: AAS 112 (2020), 1042.

[33] x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (ngày 1.5.1991), s. 11: AAS 83 (1991), 807: “Thiên Chúa đã in dấu hình ảnh và giống Ngài trên con người (x. St 1,26), ban cho họ một phẩm giá vô song […]. Thực ra, ngoài những quyền mà con người có được nhờ lao động của chính mình, còn có những quyền không tương ứng với bất kỳ công việc nào họ thực hiện, nhưng xuất phát từ phẩm giá thiết yếu của con người”. x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo ở Borgo Egnazia (Puglia) (ngày 14.6.2024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, 3-4.

[34] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dignitas Infinita (ngày 8.4.2024), s. 8-9; Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Dignitas Personae (ngày 8.9.2008), s. 22.

[35] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với những người tham dự Phiên họp toàn thể của Học viện Giáo hoàng về Sự sống (ngày 28.2.2020): AAS 112 (2024), 310.

[36] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội LVIII (ngày 24.1.2024): L’Osservatore Romano, ngày 24.1.2024, 8.

[37] Theo nghĩa này, “Trí tuệ nhân tạo” được hiểu là một thuật ngữ kỹ thuật để chỉ công nghệ này, nhắc lại rằng thuật ngữ này cũng được sử dụng để chỉ lĩnh vực nghiên cứu chứ không chỉ các ứng dụng của nó.

[38] x. Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), ss. 34-35: AAS 58 (1966), 1052-1053; Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (ngày 1.5.1991), s. 51: AAS 83 (1991), 856-857.

[39] Ví dụ, hãy xem khuyến khích khám phá khoa học ở Albertus Magnus (De Mineralibus, II, 2, 1) và sự đánh giá cao nghệ thuật cơ khí ở Hugh of St. Victor (Didascalicon, I, 9). Những tác giả này, trong số một danh sách dài những người Công giáo khác tham gia nghiên cứu khoa học và khám phá công nghệ, minh họa rằng “đức tin và khoa học có thể hợp nhất trong bác ái, miễn là khoa học được dùng để phục vụ những người nam nữ trong thời đại chúng ta mà không bị lạm dụng, làm hại hoặc thậm chí tiêu diệt họ” (Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với những người tham gia Hội nghị Lemaître năm 2024 của Vatican [ngày 20.6.2024]: L'Osservatore Romano, ngày 20.6.2024, 8). x. Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 36: AAS 58 (1966), 1053-1054; Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14.9.1998), ss. 2, 106: AAS 91 (1999), 6-7,86-87.

[40] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, s. 378.

[41] x. Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 34: AAS 58 (1966), 1053.

[42] x. Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 34: AAS 58 (1966), 1053.

[43] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 102: AAS 107 (2015), 888.

[44] x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 105: AAS 107 (2015), 889; Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 27: AAS 112 (2020), 978; Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (ngày 29.6.2009), s. 23: AAS 101 (2009), 657-658.

[45] x. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dignitas Infinita (ngày 8.4.2024), ss. 38-39, 47; Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Dignitas Personae (ngày 8.9.2008).

[46] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 35: AAS 58 (1966), 1053. x. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, s. 2293.

[47] x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo ở Borgo Egnazia (Puglia) (ngày 14.6.2024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, s.2-4.

[48] x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, s. 1749: “Tự do làm cho con người trở thành một chủ thể luân lý. Con người, khi hành động một cách có chủ ý, có thể được gọi là cha đẻ của những hành vi của mình”.

[49] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 16: AAS 58 (1966), 1037. x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, s. 1776.

[50] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, s. 1777.

[51] x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, ss. 1779-1781; Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với những người tham gia “Đối thoại Minerva” (ngày 27.3.2023): AAS 115 (2023), 463, Đức Thánh Cha khuyến khích những nỗ lực “đảm bảo rằng công nghệ luôn lấy con người làm trung tâm, có nền tảng đạo đức và hướng tới điều tốt đẹp”.

[52] x. Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 166: AAS 112 (2020), 1026-1027; x, Diễn văn tại Phiên họp toàn thể của Học viện Khoa học Giáo hoàng (ngày 23.9.2024): L'Osservatore Romano, ngày 23.9.2024, 10. Về vai trò của cơ quan con người trong việc lựa chọn một mục tiêu rộng hơn (Ziel) để sau đó thông báo cho các vấn đề cụ thể mục đích (Zweck) mà mỗi ứng dụng công nghệ được tạo ra, x. F. Dessauer, Streit um die Technik, Herder-Bücherei, Freiburg i. Anh. 1959, 70-71.

[53] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo ở Borgo Egnazia (Puglia) (ngày 14.6.2024): L'Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, 4: “Công nghệ được tạo ra có mục đích và, khi tác động đến xã hội loài người, luôn luôn thể hiện một dạng trật tự trong quan hệ xã hội và sự sắp xếp quyền lực, từ đó cho phép một số người thực hiện những hành động cụ thể đồng thời ngăn cản những người khác thực hiện những hành động khác. Theo một cách ít nhiều rõ ràng, chiều hướng quyền lực cấu thành này của công nghệ luôn bao gồm thế giới quan của những người đã phát minh và phát triển nó”.

[54] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với những người tham gia Phiên họp toàn thể của Học viện Giáo hoàng về Sự sống (ngày 28.2.2020): AAS 112 (2020), 309.

[55] x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo ở Borgo Egnazia (Puglia) (ngày 14.6.2024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, 3-4.

[56] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với những người tham gia “Đối thoại Minerva” (ngày 27.3.2023): AAS 115 (2023), 464. x. Thông điệp Fratelli Tutti, ss. 212-213: AAS 112 (2020), 1044-1045.

[57] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (ngày 14.9.1981), s. 5: AAS 73 (1981), 589; Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo ở Borgo Egnazia (Puglia) (ngày 14.6.2024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, 3-4.

[58] x. ĐTC Phanxicô, Diễn từ tại Phiên họp G7 về Trí tuệ Nhân tạo tại Borgo Egnazia (Puglia) (14.6.2024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, tr. 2: “Đứng trước những kỳ diệu của máy móc, dường như chúng có thể tự đưa ra quyết định, chúng ta cần phải rất rõ ràng rằng việc ra quyết định […] luôn phải thuộc về con người. Chúng ta sẽ kết án nhân loại vào một tương lai không có hy vọng nếu tước đi khả năng đưa ra quyết định của con người về chính bản thân họ và cuộc sống của họ, buộc họ phải phụ thuộc vào lựa chọn của máy móc.”

[59] ĐTC Phanxicô, Diễn từ tại Phiên họp G7 về Trí tuệ Nhân tạo tại Borgo Egnazia (Puglia) (14.6.024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, tr. 2.

[60] Thuật ngữ “thiên kiến” (bias) trong tài liệu này đề cập đến thiên kiến thuật toán (các lỗi có hệ thống và nhất quán trong hệ thống máy tính có thể gây bất lợi không chủ ý đối với một số nhóm) hoặc thiên kiến học tập (khi quá trình đào tạo dựa trên một tập dữ liệu thiên lệch), chứ không phải “vector thiên kiến” trong mạng nơron (một tham số được sử dụng để điều chỉnh đầu ra của các “nơron” để phản ánh dữ liệu chính xác hơn).

[61] x. ĐTC Phanxicô, Diễn từ trước những người tham dự “Đối thoại Minerva” (ngày 27.3.2023): AAS 115 (2023), tr. 464, trong đó Đức Thánh Cha khẳng định sự đồng thuận ngày càng tăng “về sự cần thiết phải có các quá trình phát triển tôn trọng những giá trị như sự bao hàm, minh bạch, an toàn, công bằng, quyền riêng tư và độ tin cậy,” đồng thời hoan nghênh “những nỗ lực của các tổ chức quốc tế nhằm điều chỉnh các công nghệ này để chúng thúc đẩy tiến bộ đích thực, góp phần xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống một cách toàn diện.”

[62] ĐTC Phanxicô, Huấn từ gửi phái đoàn của “Hiệp hội Max Planck” (ngày 23.2.2023): L’Osservatore Romano, 23.2.2023, tr. 8.

[63] Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 26: AAS 58 (1966), tr. 1046-1047.

[64] ĐTC Phanxicô, Diễn từ trước những người tham dự Hội thảo “Thiện ích chung trong thời đại kỹ thuật số” (ngày 27.9.2019): AAS 111 (2019), tr. 1571.

[65] x. ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ LVIII (ngày 24.1.2024): L’Osservatore Romano, ngày 24.1.2024, tr. 8. Để thảo luận sâu hơn về các vấn đề đạo đức liên quan đến trí tuệ nhân tạo từ quan điểm Công giáo, xem Nhóm Nghiên cứu AI của Trung tâm Văn hóa Kỹ thuật số thuộc Bộ Văn hóa và Giáo dục, Gặp gỡ Trí tuệ Nhân tạo: Những Nghiên cứu Đạo đức và Nhân học (Những nghiên cứu thần học về trí tuệ nhân tạo 1), M.J. Gaudet, N. Herzfeld, P. Scherz, J.J. Wales (chủ biên), Tạp chí Thần học Luân lý, Pickwick, Eugene 2024, tr. 147-253.

[66] Về tầm quan trọng của đối thoại trong một xã hội đa nguyên hướng tới “đạo đức xã hội vững chắc và kiên định,” x. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), ss. 211-214: AAS 112 (2020), tr. 1044-1045.

[67] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ LVII (ngày 1.1.2024), s. 2: L’Osservatore Romano, ngày 14.12.2023, tr. 2.

[68] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ LVII (ngày 1.1.2024), s. 6: L’Osservatore Romano, 14.12.2023, tr. 3. x. Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 26: AAS 58 (1966), tr. 1046-1047.

[69] x. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 112: AAS 107 (2015), tr. 892-893.

[70] ĐTC Phanxicô, Diễn từ trước những người tham dự “Đối thoại Minerva” (ngày 27.3.2023): AAS 115 (2023), tr. 464.

[71] X. Hội đồng Tòa Thánh về Truyền thông Xã hội, Đạo đức trong Internet (ngày 22.2. 2002), s. 10.

[72] ĐTC Phanxicô, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (ngày 25.3.2019), s. 89: AAS 111 (2019), tr. 413-414; trích dẫn Văn kiện Chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XV (ngày 27.10.2018), s. 24: AAS 110 (2018), tr. 1593. x. ĐTC Bênêđictô XVI, Diễn từ trước những người tham dự Hội nghị Quốc tế về Luật Đạo đức Tự nhiên (ngày 12.2.2017): AAS 99 (2007), tr. 245.

[73] x. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), ss. 105-114: AAS 107 (2015), tr. 889-893; Id., Tông huấn Laudate Deum (ngày 4.10.2023), ss. 20-33: AAS 115 (2023), tr. 1047-1050.

[74] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 105: AAS 107 (2015), 889. x. Tông huấn Laudate Deum (ngày 4.10.2023), ss. 20-21: AAS 115 (2023), 1047.

[75] x. ĐTC Phanxicô, Diễn văn với những người tham dự Phiên họp toàn thể của Học viện Giáo hoàng về Sự sống (ngày 28.2.2020): AAS 112 (2020), 308-309.

[76] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới LVII (ngày 1.1.2024), s. 2: L’Osservatore Romano, ngày 14.12.2023, 2.

[77] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 112: AAS 107 (2015), 892.

[78] x. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), ss. 101, 103, 111, 115, 167: AAS 112 (2020), 1004-1005, 1007-1009, 1027.

[79] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 26: AAS 58 (1966), 1046-1047; xem. Leo XIII, Thông điệp Rerum Novarum (ngày 15.5.1891), s. 35: Acta Leonis XIII, 11 (1892), 123.

[80] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 12: AAS 58 (1966), 1034.

[81] x. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội (2004), s. 149.

[82] Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae (ngày 7.12.1965), s. 3: AAS 58 (1966), 931. x. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), S. 50: AAS 112 (2020), 986-987.

[83] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 50: AAS 112 (2020), 986-987.

[84] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 47: AAS 107 (2015), 865. x. Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (ngày 2.3.2019), ss. 88-89: AAS 111 (2019), 413-414.

[85] x. ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (ngày 24.11.2013), s. 88: AAS 105 (2013), 1057.

[86] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 47: AAS 112 (2020), 985.

[87] x. ĐTC Phanxicô, Diễn văn tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo ở Borgo Egnazia (Puglia) (ngày 14.6.2024): L’Osservatore Romano, 14.6.2024, 2.

 

[88] x. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 50: AAS 112 (2020), 986-987.

[89] x. E. Stein, Zum problem der Einfühlung, Buchdruckerei des Waisenhauses, Halle 1917 (en. tr. Về vấn đề đồng cảm, Ấn phẩm ICS, Washington D.C. 1989).

[90] x. ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (ngày 24.11.2013), s. 88: AAS 105 (2013), 1057: “[Nhiều người] muốn mối quan hệ giữa các cá nhân của họ được cung cấp bởi các thiết bị tinh vi, bởi màn hình và hệ thống có thể bật và tắt theo lệnh. Trong khi đó, Tin Mừng bảo chúng ta hãy thường xuyên mạo hiểm gặp gỡ trực tiếp với người khác, với sự hiện diện thể lý của họ vốn thách thức chúng ta, với nỗi đau và lời cầu xin của họ, với niềm vui của họ lây nhiễm vào chúng ta trong sự tương tác gần gũi và liên tục của chúng ta. Niềm tin đích thực vào Con Thiên Chúa nhập thể không thể tách rời khỏi sự hy sinh bản thân, với tư cách thành viên trong cộng đồng, với sự phục vụ, với sự hòa giải với người khác.” x. Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 24: AAS 58 (1966), 1044-1045.

[91] x. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dignitas Infinita (ngày 8.4.2024), s.1.

[92] x. ĐTC Phanxicô, Diễn từ trước các tham dự viên Hội thảo “Thiện ích chung trong Kỷ nguyên Kỹ thuật số” (ngày 27.9.2019): AAS 111 (2019), 1570; Id., Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s.18, 124-129: AAS 107 (2015), 854, 897-899.

[93] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ LVII (ngày 1.1.2024), s. 5: L’Osservatore Romano, 14.12.2023, tr. 3.

[94] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (ngày 24.11.2013), s. 209: AAS 105 (2013), 1107.

[95] ĐTC Phanxicô, Diễn từ tại Phiên họp G7 về Trí tuệ Nhân tạo tại Borgo Egnazia (Puglia) (14.6.2024): L’Osservatore Romano, ngày 14.6.2024, tr. 4. Về giáo huấn của Đức Phanxicô liên quan đến trí tuệ nhân tạo trong mối liên hệ với “mô hình kỹ trị,” x. Id., Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), số 106-114: AAS 107 (2015), 889-893.

[96] Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 26: AAS 58 (1966), 1046-1047; được trích trong Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, s. 1912. x. ĐTC Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra (ngày 15.5.1961), s. 219: AAS 53 (1961), 453.

[97] Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (ngày 7.12.1965), s. 64: AAS 58 (1966), 1086.

[98] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3.10.2020), s. 162: AAS 112 (2020), 1025. x. ĐTC Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (ngày 14.9.1981), s. 6: AAS 73 (1981), 591: “lao động là ‘vì con người’ chứ không phải con người ‘vì lao động.’ Từ đó, người ta có thể đi đến nhận thức đúng đắn về tính ưu việt của ý nghĩa chủ quan của lao động so với ý nghĩa khách quan.”

[99] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (ngày 24.5.2015), s. 128: AAS 107 (2015), 898. X. Id., Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris Laetitia (ngày 19.3.2016), s. 24: AAS 108 (2016), 319-320.

[100] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ LVII (ngày 1.1.2024), s. 5: L’Osservatore Romano, ngày 14.12.2023, tr. 3.

Chia sẻ