Skip to content
banner
Ngôn ngữ

ĐHY Koch: Công đồng Nicaea, sau 1700 năm, vẫn còn vang vọng (số 1)

BTT UBCLHB 05
2025-01-22 10:37 UTC+7 12
Đức Hồng Y Tổng Trưởng Bộ Cổ võ các Kitô hữu hiệp nhất suy ngẫm về những cơ hội và thách thức đối với phong trào đại kết vào đêm trước Tuần lễ Cầu Nguyện cho sự hiệp nhất. Ban biên tập của Ủy ban Công Lý & Hòa bình xin giới thiệu đến quý độc giả bài suy niệm của Đức hồng y Kurt Koch về giá trị của Công đồng Nicaea, sau 1700 năm vẫn còn phù hợp cho thời đại hôm nay, đặc biệt trong Năm Thánh 2025 này.

Kurt Koch[1]

Chuyển ngữ: Phêrô Lê Minh Hải, OFM

 

Vào giữa Năm Thánh 2025 - Năm Thánh được Đức Thánh Cha Phanxicô công bố và nhằm mục đích khơi dậy niềm hy vọng của Kitô giáo - chúng ta cũng sẽ kỷ niệm 1700 năm Công đồng chung đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, được tổ chức tại Nicaea vào năm 325. Kỷ niệm này có ý nghĩa quan trọng chiều kích đại kết, điều này đã được chứng minh qua việc Đức Thánh Cha đã bày tỏ mong muốn đến Nicaea để cử hành lễ kỷ niệm này cùng với Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew I. Ủy ban “Đức tin và Hiệp nhất” của Hội đồng Đại kết các Giáo hội cũng đang chuẩn bị lễ kỷ niệm này.

 

Tuyên xưng đức tin chung của Kitô giáo

Trên hết, tầm quan trọng mang tính đại kết là các vấn đề giáo lý được Công đồng giải quyết, được tóm tắt trong "Tuyên bố 318 của các Giáo phụ". Với văn kiện này, các Giáo phụ tuyên xưng đức tin vào “một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”. Và trong lá thư của Thượng hội đồng gửi cho người Ai Cập, các Giáo phụ tuyên bố rằng đối tượng nghiên cứu thực sự đầu tiên là sự kiện Arius và những người theo ông là kẻ thù của đức tin và chống lại giáo luật, và vì vậy họ tuyên bố rằng họ đã "quyết định nhất trí lên án" giáo lý trái ngược với đức tin, những phát biểu và mô tả phạm thượng mà ông dùng để xúc phạm Con Thiên Chúa". Những tuyên bố này phác thảo bối cảnh của tín điều được Công đồng xây dựng, trong đó tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, "đồng bản thể với Chúa Cha". Bối cảnh lịch sử là một cuộc tranh chấp dữ dội nổ ra trong Kitô giáo vào thời điểm đó, đặc biệt là ở Phía Đông của Đế chế La Mã; Từ đó suy ra rằng, vào đầu thế kỷ thứ IV, vấn đề về Chúa Kitô đã trở thành chủ đề cốt lõi của thuyết độc thần Kitô giáo. Cuộc tranh cãi chủ yếu xoay quanh vấn đề làm thế nào để dung hòa lời tuyên xưng đức tin của người theo đạo Thiên Chúa vào Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa với niềm tin của người theo đạo Công Giáo vào một Thiên Chúa theo nghĩa tuyên xưng độc thần. Nhà thần học Arius người Alexandria, đặc biệt, ủng hộ thuyết độc thần nghiêm ngặt phù hợp với tư tưởng triết học thời bấy giờ và để duy trì thuyết độc thần nghiêm ngặt đó, ông đã loại Chúa Giêsu Kitô khỏi khái niệm về Chúa. Theo quan điểm này, Chúa Kitô không thể là "Con Thiên Chúa" theo đúng nghĩa của từ này, mà chỉ là một đấng trung gian mà Thiên Chúa sử dụng để tạo dựng thế giới và cho mối tương quan của Ngài với con người. Các Giáo phụ Công đồng đã bác bỏ mô hình độc thần triết học cứng nhắc do Arius truyền bá, phản đối nó bằng niềm tin rằng Chúa Giêsu Kitô, với tư cách là Con Thiên Chúa, "đồng bản thể với Chúa Cha". Với từ homoousios, các Nghị phụ Công đồng muốn diễn tả mầu nhiệm sâu xa nhất của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Thánh Kinh làm chứng là Người Con trung thành của Chúa Cha, Đấng mà Người kết hợp mật thiết trong lời cầu nguyện. Thật vậy, trong lời cầu nguyện, Chúa Giêsu hiện diện rõ ràng nhất như là Con của Chúa Cha trên trời. Trong Tân Ước, chính thánh sử Luca là người đầu tiên trình bày Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người như Con Thiên Chúa trong lời cầu nguyện liên lỉ, lấy cuộc đối thoại với Cha trên trời làm trung tâm hiện sinh và sống với Cha trong sự hiệp nhất sâu sắc. Chúa Giêsu đã sống rất nhiều trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện đến nỗi toàn bộ cuộc đời và công việc của Ngài có thể được mô tả như một lời cầu nguyện. Nếu không có thái độ cầu nguyện này, chúng ta sẽ không thể hiểu được hình ảnh Chúa Giêsu Kitô. Đây chính xác là điều mà các Giáo phụ của Công đồng Nicaea đã trực giác một cách nhạy bén, những người đã sử dụng thuật ngữ homoousios để đưa ra lời giải thích đúng đắn về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và cách diễn giải sâu sắc nhất về cuộc đời và cái chết của Ngài, luôn được đánh dấu bằng cuộc đối thoại với Chúa Cha. Với từ homoousios, Công đồng Nicaea không hề "Hy Lạp hóa" đức tin Kinh Thánh, bắt phải tuân theo một triết lý xa lạ, mà đúng hơn là nắm bắt được điều đã trở nên vô cùng mới mẻ trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Đúng hơn, Arius là người đã điều chỉnh đức tin Kitô giáo theo tư tưởng triết học của thời đại đó, trong khi Công đồng Nicaea lại tiếp thu triết học của thời đại đó để diễn đạt những đặc điểm của đức tin Kitô giáo. Trong Kinh Tin Kính Nicea, Công đồng một lần nữa tuyên bố như Phêrô và với Phêrô tại Caesarea Philippi: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Tín điều về Chúa Kitô của Công đồng đã trở thành nền tảng của đức tin chung của Kitô giáo. Công đồng có tầm quan trọng đặc biệt vì nó diễn ra vào thời điểm Kitô giáo vẫn chưa bị chia rẽ bởi nhiều chia rẽ sẽ phát sinh sau này. Kinh Tin Kính Nicea không chỉ phổ biến trong các Giáo Hội Đông Phương, các Giáo Hội Chính Thống Giáo và Giáo Hội Công Giáo, mà còn phổ biến trong các cộng đồng Giáo Hội ra đời từ thời Cải cách; Do đó, không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của nó đối với đại kết. Trên thực tế, để tái lập sự hiệp nhất của Giáo Hội, cần phải có sự đồng thuận về nội dung cốt lõi của đức tin, không chỉ giữa các Giáo Hội và Cộng đồng Giáo Hội ngày nay, mà còn với Giáo Hội trong quá khứ và đặc biệt là, với nguồn gốc tông đồ. Sự hiệp nhất của Giáo Hội dựa trên đức tin tông truyền, mà trong Bí Tích Rửa Tội được truyền lại và ủy thác cho mỗi thành viên mới của Thân Mình Chúa Kitô.  

 

Nền tảng kitô học của phong trào đại kết thiêng liêng

Vì sự hiệp nhất chỉ có thể tìm thấy trong đức tin chung, nên lời tuyên xưng về Chúa Kitô của Công đồng Nicaea trở thành nền tảng của chủ nghĩa đại kết về mặt thiêng liêng. Đây rõ ràng là cách nói thừa. Chủ nghĩa đại kết Kitô giáo hoặc là mang tính thiêng liêng hoặc là không phải là chủ nghĩa đại kết. Đây là lý do tại sao Sắc lệnh về Đại kết của Công đồng Vatican II gọi đại kết thiêng liêng là "linh hồn của toàn bộ phong trào đại kết" (Unitatis redintegratio, 8). Điều này đã thể hiện rõ ngay từ những ngày đầu của phong trào đại kết, với việc ra mắt Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, bản thân nó cũng là một sáng kiến ​​đại kết. Phong trào đại kết ngay từ khi mới ra đời đã là một phong trào cầu nguyện. Chính lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu đã mở đường cho phong trào đại kết. Tính trung tâm của lời cầu nguyện nhấn mạnh đến thực tế rằng nỗ lực đại kết, trên hết, là một nhiệm vụ thiêng liêng, được thực hiện với niềm tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ hoàn thành công việc đại kết đã bắt đầu và sẽ dẫn đường cho chúng ta. Điều này đặc biệt đúng khi phong trào đại kết thiêng liêng được hình thành và thực hiện như phong trào đại kết về Chúa Kitô, mà Công đồng Nicaea là nền tảng vững chắc. Thật vậy, cốt lõi của phong trào đại kết Kitô giáo nằm ở sự hoán cải chung của tất cả các Kitô hữu và tất cả các Giáo Hội về với Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà sự hiệp nhất đã được ban cho chúng ta. Phong trào đại kết Kitô giáo chỉ có thể tiến triển đáng tin cậy nếu các Kitô hữu cùng nhau quay trở về với nguồn đức tin, chỉ có thể tìm thấy nơi Chúa Giêsu Kitô, như các Giáo phụ Công đồng đã tuyên xưng tại Nicaea. Theo cách này, chủ nghĩa đại kết Kitô giáo tương ứng sâu sắc hơn với ý muốn của Chúa, Đấng chung cho tất cả các Kitô hữu, đã cầu nguyện trong lời cầu nguyện tư tế của Ngài cho sự hiệp nhất của các môn đệ: "Để tất cả nên một" (Ga 17:21). Điều đáng ngạc nhiên về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là Ngài không ra lệnh cho các môn đệ phải đoàn kết, cũng không đòi hỏi điều đó; Thay vào đó, Ngài cầu xin điều đó bằng cách hướng về Cha trên trời. Lời cầu nguyện này cho thấy hành trình đại kết nhằm khôi phục sự hiệp nhất dưới ánh sáng đức tin bao gồm và nên bao gồm những gì. Phong trào đại kết Kitô giáo không thể là gì khác ngoài việc tất cả các Kitô hữu tuân theo lời cầu nguyện của Chúa, và nó trở thành như vậy khi các Kitô hữu biến mong muốn sống động về sự hiệp nhất thành của riêng mình. Nếu chủ nghĩa đại kết không giới hạn ở chiều kích liên cá nhân và bác ái, nhưng thực sự có nguồn cảm hứng và nền tảng Kitô học, thì nó không thể là gì khác ngoài việc tham gia vào lời cầu nguyện tư tế của Chúa Giêsu. Ý nghĩa sâu sắc nhất của phong trào đại kết thiêng liêng như là phong trào đại kết về Chúa Kitô là tất cả chúng ta đều cho phép mình tham gia vào phong trào cầu nguyện với Chúa Cha trên trời do Chúa Giêsu dẫn dắt và do đó trở nên một. Nơi ở bên trong của sự hiệp nhất Kitô giáo chỉ có thể là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.

(Còn tiếp)


[1] Đức Hồng Y Tổng Trưởng Bộ Cổ võ các Kitô hữu hiệp nhất.

Chia sẻ